Gia đình, Bạn bè và Đất nước (Hồi ký) – Nguyễn Thị Bình
Đây là cuốn sách mà mình quan tâm và tìm mua từ năm ngoái. Tuy nhiên cuốn sách đã xuất bản cách đây khoảng 10 năm, các tiệm sách ngoài Hà Nội đều không có. Một lần vô tình lang thang trên facebook, mình đã tìm mua được ở tiệm sách trong Đà Nẵng. Tiền sách thì ít, tiền ship thì nhiều. Dẫu vậy nó vẫn là quá rẻ so với giá trị lịch sử của cuốn sách. Nội dung cuốn sách được viết dưới góc nhìn của người trực tiếp tham gia hai cuộc chiến tranh lịch sử của dân tộc và hơn hết với mình đó là góc nhìn của một người phụ nữ. Người phụ nữ ấy là bà Nguyễn Thị Bình, tên thật là Nguyễn Thị Châu Sa. Cái tên thuở con gái của bà thật đẹp, hẳn là ẩn chứa bao yêu thương gửi gắm từ cha mẹ. Còn tên bà sử dụng và được mọi người biết đến rộng rãi sau này là để phục vụ cho mục đích công việc. Nhưng không hiểu sao mình cảm nhận cái tên thứ hai ấy thể hiện con người bà – một người luôn cố gắng nhìn nhận và đánh giá sự việc từ nhiều góc nhìn và công tâm nhất có thể.
Có lẽ khoảng 5, 10 năm nữa, sẽ không còn những chứng nhân lịch sử của hai cuộc chiến ấy đủ sức khỏe và minh mẫn để chia sẻ cho chúng ta những câu chuyện năm xưa. Những sự kiện, những con số khô khan từ sách vở rất buồn chán và khó tiếp thu. Những bộ phim, bài hát với hình ảnh và âm thanh sống động sẽ hấp dẫn hơn nhưng cũng dễ phai nhạt. Đọc hồi ký chiến tranh cũng là một cách học lịch sử – tuy tốn thời gian nhưng nhiều cảm xúc và khó quên. Chúng ta đọc để có thể thêm góc nhìn, trải nghiệm từ người trong cuộc. Chiến tranh luôn khốc liệt và đáng sợ. Đọc để biết giá trị hòa bình mà mình đang có và biết đâu sẽ thêm ý thức giữ gìn nó trong tương lai. Từ khi làm mẹ, mình đã biết sợ mất mát. Những hình ảnh chàng trai cô gái mười tám đôi mươi nằm xuống ở thành cổ Quảng Trị, hay dọc đường Trường Sơn khiến mình rơi nước mắt và se lại khi tưởng tượng nó có thể là hình ảnh con mình sau này nếu đất nước có chiến tranh. Giữa một thế giới điên loạn như hiện nay, mình nghĩ bất kỳ chuyện gì cũng có thể xảy ra.
Tháng 4/2025 cuốn sách được tái bản. Cảm ơn cô em gái nhỏ đã tặng mình ấn bản mới nhất. Cảm ơn nhà xuất bản nơi em làm việc đã tái bản một cuốn sách vốn được ít người quan tâm. Nếu bạn chưa có thì hãy mua nhé! Dù bây giờ bạn chưa muốn đọc thì cũng hãy mua và cất lên giá sách. Bởi sau này khi bạn có nhiều thời gian, có nhiều tiền và muốn đọc thì chưa chắc bạn đã tìm mua được đâu. Chúng ta thường bỏ lỡ những thứ giá trị mà không bao giờ nhận ra.
Thế hệ 8x của mình, ngày nhỏ vẫn “được bồi đắp” trong các chương trình sách báo, tivi đậm màu cách mạng nên vẫn còn chút ấn tượng về chiến tranh. Tuy nhiên thế hệ con của mình đã thay đổi rất nhiều, có lẽ nhiều em nhỏ còn chưa từng đeo khăn quàng đỏ. Mình nghĩ đây là cuốn sách hay cho tình yêu bé của mình hiểu thêm về lịch sử Việt Nam.
Sau đây mình sẽ chia sẻ những đoạn trích ấn tượng đối với mình. Đó thường là những đoạn bày tỏ tâm tư của tác giả về con người, về giáo dục, về sự giúp đỡ của bạn bè quốc tế – những nội dung mình quan tâm nhưng không được biết đến trong sách vở. Nếu bạn chưa có thời gian đọc cả cuốn sách thì hãy đọc thử những đoạn trích này nhé! Nếu bạn đọc sách rồi thì có thể comment chia sẻ với mình những đoạn mà bạn tâm đắc.
Những đoạn trích ấn tượng (đối với mình) từ cuốn hồi ký “Gia đình, Bạn bè và Đất nước” của bà Nguyễn Thị Bình (Xuất bản lần thứ hai vào 4/2025 – Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia sự thật)

Chương “Quê hương”
“Đất Quảng có nhiều vùng đặc biệt nghèo, nhất là miền núi. Nhưng có lẽ tạo hóa dường như có luật bù trừ. Tại vùng Tiên Phước, nơi “chó ăn đá, gà ăn sỏi” của quê ngoại tôi đã sản sinh ra nhiều nhà yêu nước lớn, trong đó có ông ngoại tôi – cụ Phan Châu Trinh, và cụ Huỳnh Thúc Kháng (khi Bác Hồ sang Pháp năm 1946, cụ là Quyền Chủ tịch nước).”
“Học giả Hoàng Xuân Hãn cho rằng trong hoàn cảnh trăn trở tìm đường cứu nước của các sỹ phu cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, cụ Phan Châu Trinh là người đầu tiên nhận ra nguyên nhân mất nước chính là ở trong sự lạc hậu tai hại về văn hóa của nước ta thời bấy giờ, cho nên cụ đã chủ trương con đường phát triển đất nước là phải “khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh”. Cụ đã nói dứt khoát: “Chi bằng học!”. Có thể hiểu: nhân dân cần có sự hiểu biết, có tri thức, đồng thời được khơi dậy lòng tự tôn dân tộc thì mới mong làm nên đại sự, mưu cầu tự do, hạnh phúc. Tôi nghĩ đây là một tư tưởng lớn, còn giá trị lâu dài, ngay cả đối với chúng ta ngày nay.
Cụ Phan cũng được coi là con người tiêu biểu cho tính chất chung của người xứ Quảng: cương trực, khí phách, không dễ bị khuất phục. Tật “hay cãi” của người Quảng chắc cũng có trong cụ. Người Quảng cũng thường “tham việc công”, nghĩa là có trách nhiệm với đất nước, cộng đồng, sẵn sàng gánh vác và dấn thân. Con người đó cũng lại là con người rất nghĩa tình, và cởi mở, nhạy cảm với cái mới, nên đã có câu ca:
Đất Quảng Nam chưa mưa đà thấm,
Rượu Hồng đào chưa nhắm đà say.
Nhiều bạn bè cho rằng tôi đã thừa hưởng một số đặc tính ấy của người dân đất Quảng!”
Chương “Tuổi thơ”
“Tôi được sinh ra ở xã Tân Hiệp, tỉnh Sa Đéc, và được ba má đặt tên là Sa.“
(Đoạn viết về ông cụ thân sinh ra bà Bình – đoạn này cần chú thích vì đoạn trích sau chỉ dùng từ “Cụ” có thể gây khó hiểu cho người chưa đọc cuốn sách.)
“Cụ là người ham lao động, đặc biết rất say mê kỹ thuật. Ở nhà dưới có một phòng đủ các dụng cụ về cơ khí để cụ sửa chữa, chế tạo. Ngoài giờ đi làm, muốn tìm cụ thì phải vào cái kho đặc biệt đó. Cụ là người yêu lao động nên đánh giá con người cũng qua thái độ lao động của họ: người nào siêng làm là người tốt, người nào hơi lười cụ không ưa. Đối với chúng tôi, cụ cũng có yêu cầu như vậy bất kể là trai hay gái: biết đi xe đạp thì phải biết sửa xe, vá săm lốp. Ông cụ thích chúng tôi ham học, ham đọc sách, chơi thể thao, không thích chúng tôi đờn ca, giao du với bạn bè nhiều. Về sau trong suốt đời hoạt động và công tác, tôi luôn gắn bó và cũng dễ gần gũi với người dân lao động, thường nhìn con người qua thái độ lao động và cách họ quan hệ với người lao động, nghĩ lại tôi rất biết ơn ông cụ tôi về ảnh hưởng đó.
Mẹ tôi có lẽ vì sinh đẻ nhiều, không được khỏe. Bà mất khi tôi mới 16 tuổi và em út tôi chưa đầy năm. Tuy vậy, tôi đã có một thời thơ ấu đầm ấm, hạnh phúc giữa tình thương của cha mẹ và người thân. Đến khi mẹ mất, tôi mới cảm thấy lo lắng và thiếu thốn tình cảm. Nhìn đàn em còn nhỏ dại, tôi bắt đầu ý thức về trách nhiệm của mình: phải thay mẹ lo cho các em.”
“Trong những năm 40 của thế kỷ XX, gia đình tôi không sống ở trong nước, nhưng tin tức về các cuộc nổi dậy của cộng sản ở Mỹ Tho và một số tỉnh Nam Bộ cũng đã đến với chúng tôi. Hồi đó, tôi thấy mẹ tôi thường tỏ ra buồn bực, bà hay tâm sự với những người bạn thân: “Không biết bao giờ nhân dân ta mới đánh được Tây?”
Ở Campuchia, gia đình chúng tôi sống trên đại lộ Miche (Boulevard Miche), Thủ đô Phnôm Pênh. Nhà làm bằng gỗ, với một kiến trúc rất đặc biệt, do ba tôi thiết kế theo ý tưởng của cụ: phải rộng rãi, thoáng mát, tiện lợi. Nhà ở sau một bãi cát rất rộng, mùa trăng rằm sáng trắng như tuyết. Những đêm trăng sáng, chị em tôi rất thích đuổi nhau trên bãi cát trắng. Sau nhà là đồng ruộng, mùa nước lên, nước có thể đến chân cột nhà. Tôi giữ mãi hình ảnh về ngôi nhà thân thiết đã gắn với thời niên thiếu của mấy chị em chúng tôi những năm tháng chúng tôi còn đủ cha và mẹ.
Tôi học trường Lycée Sisowath, trường trung học lớn nhất ở Campuchia. Vì cha tôi làm công chức nên tôi “được” học ở hệ thống “chính quốc” Pháp, không theo hệ thống dành cho người bản xứ. Ở đây phần lớn học sinh là con cái công chức người Pháp, hoặc có quốc tịch Pháp. Tinh thần dân tộc của tôi và các em tôi đã biểu hiện trong một số vụ va chạm với “bọn con Tây”. Tôi nhớ một lần ra chơi, mấy đứa bạn học người Pháp nói với nhau về những người giúp việc nhà họ: “Bọn Anamites đều là những tên ăn cắp”. Tôi nghe thấy, không chịu nổi, đến hỏi chúng: “Chúng mày nói gì?”. Mấy đứa còn đang ngơ ngác, tôi lấy ngay cặp sách nện vào chúng. Các em tôi đến đón tôi cũng nhảy vào tiếp sức chị. Một cuộc ẩu đả xảy ra, may không có ai bị thương đáng kể. Ngày hôm sau, tôi bị ông Hiệu trưởng gọi lên, tôi tưởng ông sẽ kỷ luật tôi, nhưng ông chỉ nhắc nhở nhẹ nhàng.
Mẹ ốm nặng, phải về chữa bệnh ở Sài Gòn từ cuối năm trước, ở tại nhà thờ cụ Phan bên Đa Kao. Thi “brevet” xong tôi về Sài Gòn thăm mẹ. Nhìn mẹ gầy ốm gần như da bọc xương, tôi thương quá, ân hận đã không được ở bên mẹ để chăm sóc. Tôi khóc sưng cả mắt. Mẹ nhìn tôi, chỉ lắc đầu lẩm bẩm: “Thương con tôi, nó còn nhỏ quá!”. Đi đường gần một ngày từ Phnôm Pênh về Sài Gòn quá mệt, tôi nằm thiếp đi một lúc thì chị giúp việc gọi dậy báo mẹ đã mất rồi. Lúc đó ba tôi đi công tác xa chỉ kịp về đưa đám mẹ. Các em tôi cũng không được gặp mẹ giây phút cuối cùng. Chỉ có mình tôi, may còn được gặp mẹ trước khi bà ra đi mãi mãi. Mẹ tôi được chôn cất tại nghĩa địa Trung Kỳ Ái hữu, mãi đến năm 1976 mới được cải táng đưa tro về nhà thờ cụ Phan hiện nay. Trước đây, tôi mong ước sau khi học xong tú tài sẽ xin học trường Y, trở thành bác sĩ để chữa bệnh cho mẹ và những người nghèo. Sở dĩ tôi có ý nghĩ và mong ước đó là vì tôi thấy bác sĩ đến chữa bệnh cho mẹ tôi tuy đã được trả tiền nhưng không sốt sắng và tận tâm, gia đình phải cầu cạnh họ. Có lẽ chúng tôi không gặp được những bác sĩ tốt chăng?
Ở tuổi 16, tôi đã mất mẹ. Các em tôi lúc đó còn rất nhỏ, mới 13, 9, 5, 3 tuổi và em út mới mấy tháng tuổi. Khi còn mẹ, tôi chỉ biết ăn học, vui chơi. Ba tôi đặt nhiều hy vọng vào tôi. Tôi học tương đối tốt, nhất là môn Toán, lúc nào cũng được điểm cao, nhờ đó mà sau này tôi đã làm gia sư và có lúc dạy Toán ở một vài trường. “Con cố gắng học tốt, sau này có nghề nghiệp, có gì còn lo cho các em”, ba tôi thường nhắc nhở tôi, dường như ông đã tiên lượng hoàn cảnh của chúng tôi.”
Chương “Tôi là người hạnh phúc”
“Tôi là người hạnh phúc. Tôi đã lấy được người mình yêu, và đó cũng là mối tình đầu. Vì công tác, anh Khang và tôi thường xa nhau. Nhưng tình nghĩa giữa chúng tôi đã giúp tôi đứng vững và hoàn thành nhiệm vụ.”
“Có lẽ nhiều đồng chí cũng như tôi, trong lúc đất nước đang sôi sục chiến đấu với kẻ thù, không thể từ chối bất kỳ việc gì mà kháng chiến, đất nước đang cần. Nhưng có một khó khăn mà tôi không vượt qua được, đành phải hy sinh: đó là việc chăm sóc hai con. Từ 2 tuổi chúng đã phải đi nhà trẻ, một tuần mới về nhà một lần, khi mẹ đi vắng có các cậu đưa đón, các cậu bận thì không được về. Khi các con tôi đã lớn hơn, tôi phải đi vắng hằng năm, phải gửi Thắng và Mai cho trường nội trú. Chiến tranh ác liệt, các cháu lại đi sơ tán với dì. Ba ở quân đội nên cũng không lo được cho các con. Đi công tác xa, nghe bom đạn rơi gần chỗ con ở, tôi lo lắng đến thắt lòng, thương các con vô cùng. Đất nước bị chia cắt trong hơn 20 năm, tôi cảm thông sâu sắc với các anh, các chị phải xa con đằng đẵng, khiến chúng thiếu tình thương và sự dạy dỗ cần thiết. Chiến tranh, biết bao nhiêu người phải hy sinh, còn có lựa chọn nào khác!”
“Đời tôi, do công tác nên thường xa gia đình, nhưng những người thân yêu của tôi như bao giờ cũng luôn ở cạnh, gắn bó và là động lực trong mọi công việc của tôi. Cũng có thể nói tôi có một cuộc đời rất lạ: không thể tách ảnh hưởng và tình thương của gia đình trên mỗi bước đường nhiều nỗi gian truân của mình. Đó là sức mạnh và cũng là hạnh phúc của đời tôi.“
Chương “Trưởng thành trong kháng chiến chống Pháp”
“Năm 1948, đồng chí Hồ Bắc ở cấp ủy quận xuống gặp tôi, nói các đồng chí ở quận đánh giá tôi hoạt động rất tích cực, định kết nạp tôi vào Đảng Cộng sản Đông Dương. Đồng chí giảng giải cho tôi về Đảng, về Hồ Chí Minh là Chủ tịch Đảng. Tôi nghe thấy rất hay, nhưng xin để được suy nghĩ. Theo tôi, làm đảng viên là phải hết sức gương mẫu, sẵn sàng hy sinh cho lý tưởng, cần lượng đúng sức mình. Một thời gian sau tôi đồng ý.”
“Ở bót Catinat, sào huyệt chính của bọn mật thám Đông Dương, tôi đã tận mắt chứng kiến sự tàn bạo, dã man của bọn tay sai thực dân. Chúng đánh đập tra khảo không thương tiếc bất kể nam nữ, già trẻ. Đối với phụ nữ chúng giở nhiều trò đồi bại để làm nhục chị em. Tôi thật không tưởng tượng nổi con người lại có thể bạo tàn với đồng loại như thế. Sau này, gặp một số bạn của tôi đã bị bắt dưới thời Mỹ – ngụy, các chị cho biết bọn này còn dã man gấp bội. Ai chưa từng trải qua nhà tù đế quốc khó mà hình dung nổi những sự chịu đựng của chúng tôi.”
“Bót Catinat do cò Bazin chỉ huy, một tên mật thám đầu sỏ khét tiếng. Từ lâu bót này đã nổi tiếng là nơi tàn ác nhất. Bót nằm ngay ở đầu đường Catinat, con đường sang trọng nhất Sài Gòn, có nhiều cửa hàng cao cấp, những khách sạn lớn nhất. Ngay trước mặt là nhà thờ Đức Bà, lớn và đẹp nhất của thành phố. Không hiểu thực dân Pháp, chính xác hơn là mật thám Pháp, nghĩ gì khi đặt bót Catinat ở đây? Trong đêm khuya, từ những phòng biệt giam, phòng tra tấn, sau những trận đòn dã man khủng khiếp của kẻ thù, lại nghe văng vẳng bên tai tiếng chuông Nhà thờ Đức Bà, như muốn làm dịu bớt nỗi đau của chúng tôi! Thật mỉa mai thay!”
Chương “Một mặt trận đặc biệt của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước”
“Có lẽ, trong đời mình, tôi có một may mắn lớn là lúc nào xung quanh cũng có nhiều bạn bè, cùng chia sẻ những suy nghĩ, ý tưởng, cũng như những khó khăn, thử thách …, cho tôi có thêm tự tin và sức mạnh.“
“Bạn bè yêu mến chúng ta không chỉ vì tính chất chính nghĩa của cuộc đấu tranh của chúng ta mà còn vì cảm phục quyết tâm và tinh thần hy sinh to lớn của một dân tộc nhỏ dám đứng lên chống lại một đế quốc khổng lồ, “thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu làm nô lệ”, một David chống lại Golliath và càng đánh càng thắng.”
Chương “Cuộc đàm phán dài nhất lịch sử”
“Có nhà báo nhận xét: “Tên bà là hòa bình nhưng bà chỉ nói về chiến tranh”. Tôi có thể nói gì khác là lên án cuộc chiến tranh xâm lược của Mỹ và nêu rõ ý nghĩa cuộc chiến đấu của nhân dân ta, vì hòa bình và độc lập, tự do?! Phải khẳng định rằng chúng ta không hề muốn có chiến tranh. Chính thực dân Pháp và đế quốc Mỹ đã buộc nhân dân ta phải đứng lên tự vệ.”
“Để có được những lý lẽ sắc bén đấu tranh trên bàn đàm phán và tranh thủ được dư luận rộng rãi, chúng tôi thường tìm đọc các sách lịch sử thế giới, và nhất là lịch sử nước ta. Tôi đặc biệt thích đoạn nói về thời kỳ Lê Lợi – Nguyễn Trãi thế kỷ XV. Cách đây gần 600 năm, tổ tiên ta đã tổ chức hiệp đồng chiến đấu trên ba mặt trận quân sự, chính trị, ngoại giao rất tài tình. Thật tuyệt vời là những bức thư ngoại giao lúc mạnh mẽ lúc mềm dẻo của Nguyễn Trãi vừa gây sức ép, vừa thuyết phục đối phương rút quân về nước. Gần sáu thế kỷ sau, đúng là chúng ta đang đi theo truyền thống đánh giặc vừa cực kỳ anh dũng, vừa hết sức thông minh của cha ông.”
“Tôi nhớ nhất một cuộc gặp mặt báo chí trên truyền hình trực tiếp vào giữa năm 1971. Truyền hình Pháp có sáng kiến tổ chức cuộc họp báo ở hai đầu Paris và Washington. Có 20 nhà báo tham gia, 10 người phần lớn là Mỹ coi như bảo vệ lập trường của Mỹ, 10 người khác phần lớn là Pháp coi như trung lập, khách quan. Khi được mời, tôi có phần ngần ngại, nghĩ mình chỉ có một mình giữa bao nhiêu nhà báo sừng sỏ không quen biết, lại phải tranh luận bằng tiếng Pháp. Đồng chí Dương Đình Thảo, người phát ngôn của đoàn và anh chị em động viên tôi, coi đây là dịp rất tốt để ta giới thiệu trước toàn thế giới lập trường chính nghĩa của ta và vạch âm mưu, tội ác của Mỹ, nên phải hết sức tận dụng. Gần hai tiếng đồng hồ căng thẳng dưới ánh đèn sáng chói của trường quay. Các nhà báo chủ yếu xoay quanh lập trường của Mỹ và Việt Nam tại bàn đàm phán. Tuy hồi hộp, song tôi vẫn cố gắng bình tĩnh đối đáp đàng hoàng, mạnh mẽ nhưng hòa nhã, nêu rõ thiện chí của chúng ta muốn tìm giải pháp chính trị, chấm dứt đau khổ của nhân dân, và cũng kiên quyết đến cùng vì tự do, độc lập và thống nhất thiêng liêng của đất nước … Kết thúc họp báo tôi thở phào vì đã hoàn thành một nhiệm vụ phức tạp. Đồng chí Xuân Thủy điện thoại khen: “Cô rất dũng cảm”. Nhiều bạn Pháp, nhất là các bạn nữ thì gọi điện hoan hô, coi đây là một thành công quan trọng. Nhiều ngày sau, báo chí còn tiếp tục nói đến sự kiện này.”
“Đầu năm 1971, tôi đi thăm Cuba. Đồng chí Fidel Castro gọi năm ấy là “Năm đoàn kết với Việt Nam”. Mở đầu là một cuộc mít tinh khổng lồ tại quảng trường Jose Marti, tôi có cảm giác toàn dân La Habana đều có mặt ở đây. Chính tại đây đồng chí Fidel đã có câu nói rực lửa nổi tiếng: “Vì Việt Nam, chúng ta sẵn sàng hiến dâng cả máu của mình!“. Không khí vô cùng xúc động, mọi người hô lớn: “Việt Nam – Cuba!”, “Mỹ cút khỏi Việt Nam!”. Sứ quán ta cho biết sau đó có hàng ngàn lá thư của công dân Cuba tình nguyện sang chiến đấu bên cạnh các đồng chí Việt Nam. Tinh thần đoàn kết với Việt Nam thật sự thấm sâu vào từng gia đình, từng người dân Cuba, từ người già đế trẻ em.”
“Sẽ là thiếu sót lớn nếu tôi không nhắc đến những chuyến đi thăm Liên Xô và Trung Quốc trong khoảng thời gian này. Không thể nhớ tôi đã đi thăm chính thức Liên Xô, Trung Quốc bao nhiêu lần, và tôi cũng đi thăm hầu hết các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu. Chính phủ và nhân dân ở đây đều bày tỏ tình cảm hết sức thân thiết với Việt Nam. Sự giúp đỡ của nhân dân Liên Xô và Trung Quốc đối với cuộc đấu tranh của chúng ta là hết sức to lớn. Tôi đã từng tham dự những cuộc mít tinh đông hàng vạn người do Đảng, Nhà nước và nhân dân Trung Quốc tổ chức tại Đại lễ đường nhân dân Bắc Kinh, những cuộc mít tinh hết sức trọng thể của lãnh đạo Liên Xô tại Cung Hội nghị Kremlin … Mỗi lần trên đường từ Pháp về nước, đến Moska, Bắc Kinh chúng tôi cảm thấy an toàn và ấm áp như về đến nhà. Những năm tháng ấy quả là tình cảm thật sự chân thành.“
“Năm 1971, tình hình chiến trường rất căng thẳng. Trên bàn hội nghị, cuộc đấu lý cũng hết sức gay gắt. Đến những tháng cuối năm 1971, đầu năm 1972, thế địch – ta giằng co; trên bàn hội nghị cuộc đấu tranh vẫn tiếp tục nhưng là “cuộc nói chuyện giữa những người điếc” như lời các nhà báo. Có thể nói đây là thời gian chán ngán nhất của chúng tôi. Những lúc như thế càng thấy nhớ gia đình. Chồng tôi vẫn ở trường Công binh nhưng sức khỏe của anh đã bắt đầu giảm sút. Tôi thêm một mối lo mà chẳng biết làm sao, tôi không được ở gần để chăm sóc anh …Tâm trạng riêng của tôi là như vậy, và tôi biết mỗi người trong đoàn đều có những ngổn ngang riêng, nhưng có điều rất đặc biệt là tất cả chúng tôi không bao giờ nghĩ Việt Nam có thể thất bại. Chúng ta nhất định chiến thắng, vấn đề chỉ là “lúc nào?”.”
“Ở Paris, chúng tôi từng giờ hướng về Quảng Trị, đặc biệt về cuộc chiến đấu ở Thành cổ nổi tiếng. Không có tin tức cụ thể, kịp thời, nhưng những gì được thông báo làm nhói tim chúng tôi. Chúng tôi biết các chiến sĩ của chúng ta đều rất trẻ. Họ hiểu cuộc giành giật “đất” ở đây có nghĩa là giành lại Tự do và Độc lập cho Tổ quốc, và họ sẵn sàng hy sinh. 81 ngày đêm khốc liệt, quân ta không giữ được Thành cổ, nhưng tinh thần kiên cường chiến đấu của các chiến sĩ là thể hiện quyết tâm không gì lay chuyển được của cả dân tộc, và ở Paris chúng tôi hiểu chính tinh thần đó đã góp phần quan trọng vào cuộc đấu tranh của chúng tôi trên bàn hội nghị.”
“Khi nghe Mỹ dùng B52 oanh tạc thủ đô và các thành phố lớn của ta, chúng tôi thực sự lo.”
“Chúng tôi hồi hộp theo dõi tình hình trong nước. Đến khi nghe tin chiếc máy bay B52 đầu tiên bị bắn rơi ở Hải Phòng, rồi ở Hà Nội, liên tiếp bắn rơi một, hai, ba máy bay B52… chúng tôi vui mừng khôn xiết, tin rằng cuộc oanh kích cực kỳ dã man này của kẻ thù nhất định bị quân đội và nhân dân anh hùng của chúng ta đánh bại. Ngoài việc lo cho cái chung, tất cả anh chị em trong đoàn, nhất là các chị, đều hồi hộp theo dõi nghe ngóng các trận mưa bom B52 có rơi vào khu vực người thân mình đang sống không? Riêng tôi, khi nghe tin Mỹ giội bom trúng thị xã Hưng Yên, một thị xã nhỏ cách Hà Nội khoảng 30km, tôi bàng hoàng lo lắng, không biết các con tôi có thoát khỏi nguy hiểm không? May quá, vài ngày sau, các đồng chí trong nước báo tin các con tôi đều an toàn. Tôi thở phào nhẹ nhõm!”
“Mỹ cay đắng thấy rằng cả B52 cũng không thể làm nhụt ý chí của nhân dân ta; trái lại, ngoài thất bại quân sự, tổn thất nặng nề về B52, thất bại chính trị của Mỹ còn lớn hơn. Cả thế giới lên án Mỹ. Chính phủ Anh, đồng minh thân cận của Mỹ cũng ra tuyên bố “đáng tiếc” trước hành động này của Mỹ. Sau này, tôi được biết từ những năm 1960, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói : “Kinh nghiệm ở Triều Tiên, Mỹ cuối cùng sẽ dùng B52 để đe dọa chúng ta”. Và theo chỉ đạo của Bộ Quốc Phòng, từ đó quân đội ta đã nghiên cứu cách hạ máy bay B52. Quả là Bác đã nhìn xa và quân đội ta thật anh hùng, thông minh.“
“Nhìn lại, đúng là cái tập thể nhỏ bé của chúng tôi đã nỗ lực hết mình, làm tốt mọi nhiệm vụ. Và tôi càng hiểu vai trò và ý nghĩa quan trọng của hoạt động ngoại giao. Một đường lối ngoại giao đúng đắn, khôn ngoan có thể hỗ trợ và phát huy kết quả chiến trường một cách có lợi nhất cho chúng ta.”
Chương “Toàn thắng”
“Chuyến vào Nam lúc này đã thuận lợi nhiều, nhưng cũng phải mất 12 ngày đi ôtô commăngca, đêm đi ngày nghỉ. Đây là chuyến đi lịch sử đối với tôi, dọc đường mòn Hồ Chí Minh nổi tiếng. Vừa bắt đầu con đường lịch sử này đã thấy một hàng chữ to xếp trên vách núi gây xúc động: “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước!“. Quả là để xây dựng con đường này phải xẻ biết bao núi, lấp biết bao hố sâu… Chỉ có lòng yêu nước cao độ của con người mới có thể thực hiện được những công trình vĩ đại như vậy! Mười hai ngày đêm trên đường Trường Sơn huyền thoại, không biết chúng tôi đã vượt qua bao nhiêu cánh rừng, bao nhiêu núi đồi, sông suối … Đặc biệt ấn tượng đối với tôi là các cuộc gặp gỡ hàng trăm cô gái thanh niên xung phong trên đường. Đó là những trung đoàn sửa đường, lấp đường, dọn đường cho các đoàn xe tải, xe quân sự đi qua, sau nhưng những trận bom dữ dội. Nhìn các cô gái độ tuổi 20 lem luốc, vừa đào đào bới bới, vừa cười cười nói nói, không nghĩ gì đến nguy nan, lòng tôi se lại. Sau này tôi được biết phần lớn các cô đến khi phục vụ chiến trường trở về thì đã luống tuổi, nhiều người không lấy được chồng, không nghề nghiệp, thật đáng quý những người con gái can trường mà vô danh đó của Tổ quốc, và cảnh ngộ của chị em cũng thật đáng thương. Đã có biết bao hy sinh âm thầm như vậy trong suốt cuộc kháng chiến cực kỳ gian khổ và khốc liệt của chúng ta, và quả thật chúng ta chưa bù đắp hết công lao của họ, để họ phải mãi mãi thiệt thòi …”
“Một tối, chúng tôi phải đi qua một con sông, địch đã bắn hỏng chiếc cầu dã chiến, hai bên bờ xe ùn lại rất đông. Các chiến sĩ công binh tập trung lại, người lặn lội dưới sông, người vác vật liệu. Tấp nập nhưng không một tiếng ồn ào. Nhìn các chiến sĩ, hầu hết còn trẻ măng, tôi thương vô cùng. Nếu không có chiến tranh, hẳn các chàng trai trẻ ấy ấy đã có thể là sinh viên, hay công nhân, nông dân đang học tập, lao động ở một nơi nào đó trên quê hương. Đến gần Lộc Ninh, Bù Đốp, mặt trận tiền phương, tôi gặp một đơn vị hậu cần. Thật thích thú là ở đâu cũng có hoa phong lan nở rất đẹp, giữa chiến tranh ác liệt mà anh em bộ đội ta vẫn thích chăm chút cho hoa. Một số đồng chí tôi gặp lần đó, qua chiến dịch mùa xuân năm sau, không còn nữa …”
“Thế là ngày hôm sau – 30/4, việc phải đến đã đến! Sài Gòn được giải phóng! Niềm vui vỡ òa! Các đài, thông tấn báo chí thế giới đều đưa tin: “Sài Gòn thất thủ!, “Việt cộng” đã chiến thắng!” Nhân dân cả nước đổ ra đường, ôm nhau mà khóc, những giọt nước vui sướng! Đây là kết quả tất yếu của sự hy sinh của cả dân tộc, là thành quả huy hoàng và công lao chung của cả dân tộc, từ các lực lượng vũ trang, các lực lượng chính trị hoạt động công khai hoặc bí mật, từ những em bé dẫn đường đến bà con mọi tầng lớp, những người anh hùng có tên tuổi và triệu triệu người vô danh. Không ai có thể nói phần này do anh, phần này do tôi. Và trong lúc này, tôi lại nghĩ đến vai trò của hậu phương lớn, miền Bắc xã hội chủ nghĩa. Gọi là hậu phương mà cũng là tiền phương. Nhớ có lần đến thăm các bạn Palextin trong các trại tị nạn , gặp lãnh tụ Yasser Arafat, mọi người hỏi nhờ đâu mà Việt Nam chiên đấu và chiến thắng. Chúng tôi đều trả lời: “Có ba điều: Chúng tôi có Hồ Chí Minh, lãnh tụ xuất chúng của Việt Nam đã suốt đời phục vụ sự nghiệp đấu tranh giành độc lập, tự do cho đất nước; Chúng tôi có sự đoàn kết dân tộc mạnh mẽ; Và chúng tôi có miền Bắc, một nửa đất nước xã hội chủ nghĩa làm hậu phương lớn vững chắc“. “
“Chúng ta cũng không bao giờ quên trong thắng lợi vĩ đại của Việt Nam có sự đóng góp to lớn, quý báu, không thể thiếu được của nhân dân các nước xã hội chủ nghĩa, nhân dân yêu chuộng hòa bình và công lý trên toàn thế giới. Và chúng ta đã biết mở đầu chiến tranh, tiến hành chiến tranh cực kỳ anh dũng và thông minh, thì cũng biết cách kết thúc chiến tranh thật tuyệt.”
Chương “Những kỷ niệm và cảm nghĩ còn lắng sâu”
“Có một điều đáng chú ý trong cuộc đấu tranh giải phóng của Việt Nam, đặc biệt là trong công cuộc kháng chiến chống Pháp, rồi chống Mỹ, hầu hết các trí thức lớn của Việt Nam đều có mặt bên cạnh đông đảo công nhân và nông dân. Và cũng đặc biệt là trong phong trào đoàn kết quốc tế với Việt Nam, nhiều tri thức lớn của các nước cũng tích cực tham gia.”
“Những người trí thức hiểu hơn hết giá trị của con người, hiểu được ý nghĩa tự do và công lý.“
“Tám năm sau, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân (năm 1968) nổ ra vang dội. Đây là một thắng lợi rất cơ bản, là bước ngoặt trong cuộc chiến tranh cách mạng của nhân dân Việt Nam. Đại hội Đảng lần thứ IV đã nhận định “có mùa Xuân 68 mới có mùa Xuân 75“. Đến bây giờ, một số tác giả là quan chức Mỹ, nhất là trong giới quân sự, vẫn cho là “Việt cộng” đã thất bại nặng nề trong Tết Mậu Thân, nếu lúc bấy giờ phía Mỹ “dấn tới” dùng sức mạnh quân sự thì có thể đã “giành chiến thắng”. Đấy là những nhận định thiển cận, chỉ thấy cái hiện tượng mà không thấy cốt lõi của vấn đề, chỉ thấy cái trước mắt, tạm thời mà không thấy cái toàn cục. Trong Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân, dù phía ta có những tổn thất không nhỏ, nhưng cuộc tiến công và nổi dậy anh hùng ấy đã làm lung lay ý chí xâm lược của Mỹ. Việc Quân giải phóng từ trước chỉ tấn công quân địch lẻ tẻ ở vùng nông thôn rừng núi, nay có thể đồng loạt đánh thẳng vào đô thị, đánh thẳng vào các cơ quan đầu não của địch, có nghĩa là không một nơi nào địch có thể an toàn. Thế trận đó buộc Mỹ đi đến quyết định vô cùng quan trọng: xuống thang chiến tranh. Chính quyền Johnson đã buộc phải chấp nhận đi vào đàm phán, dù vẫn ngoan cố ôm ấp mưu đồ tìm ra một “giải pháp trên thế mạnh”.”
“Những bài học rút ra từ cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của chúng ta có rất nhiều và rất quan trọng cho sự nghiệp đấu tranh bảo vệ độc lập và chủ quyền đất nước hôm nay và mai sau. Tuy nhiên, tôi đặc biệt thấm thía về những chủ trương có tính chiến lược lớn:
Chúng ta đã biết kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh của thời đại. Bằng chủ trương này chúng ta đã tranh thủ được thế mạnh về chính trị và điều kiện về tài lực to lớn của Liên Xô, Trung Quốc và phe xã hội chủ nghĩa, đồng thời cũng giành được sự đồng tình và công lý trên thế giới, sức mạnh của chúng ta được nhân lên gấp bội. Ở đây tôi thấy cần ghi nhận đúng mực sự đóng góp quan trọng của Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam với chính sách mềm dẻo và những hoạt động năng nổ và khôn khéo, đã gây được tình cảm và thu phục được những người thuộc các chính kiến khác nhau, tạo nên một phong trào ủng hộ quốc tế rộng rãi và hết sức mạnh mẽ.
Bài học lớn nữa là trong lúc tiến hành chiến tranh cũng như trong đàm phán, chúng ta luôn giữ vững nguyên tắc độc lập, tự chủ. Chúng ta tranh thủ đúng mức những lời khuyên của bạn bè, nhưng bao giờ cũng giữ nguyên tắc độc lập quyết định trên lập trường vì lợi ích của đất nước ta.
Ngay giữa lúc chiến tranh ở giai đoạn ác liệt, cần rất nhiều vũ khí cho chiến trường miền Nam, đường vận tải trên dãy Trường Sơn lại dài và rất khó khăn … có nước đã đề nghị cử người, đưa xe và vũ khí vào miền Nam, các đồng chí lãnh đạo Việt Nam cảm ơn và đã từ chối. Ta xin nhận vũ khí nhưng vận chuyển đến đâu và sử dụng như thế nào là việc của chúng ta.
Chúng ta kiên quyết không để chiến tranh mở rộng thành sự đối đầu quốc tế, vì sẽ rất phức tạp và khó chủ động, nhưng cũng không thể để đất nước bị chia cắt mãi. Hội nghị Genève năm 1954 từng cho chúng ta nhiều kinh nghiệm quý báu. Chúng ta quyết đánh và biết cách đánh, biết mở đầu chiến tranh và biết cách kết thúc chiến tranh.
Sau 40 năm, nhiều nhà hoạt động chính trị trên thế giới vẫn còn không hết ngạc nhiên về thắng lợi của nhân dân Việt Nam, một nước nhỏ đã đánh thắng một đế quốc lớn nhất. Muốn hiểu được những nguyên nhân của sự kiện vĩ đại này, phải bắt đầu từ lịch sử mấy nghìn năm ông cha ta lập nước, giữ nước, và nhất thiết phải nghiên cứu những tài liệu, bút tích, tổng kết (có thể chưa đầy đủ) của các đồng chí là nhân chứng lịch sử. Đối với tôi và nhiều đồng chí, có thể thấy rõ: Chủ tịch Hồ Chí Minh là người cha, là linh hồn của cuộc chiến đấu oai hùng chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta. Những tư tưởng lớn của Người về đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế đã được quán triệt trong các chủ trương, chính sách của Đảng. Bên cạnh Hồ Chủ Tịch, có cả một bộ tham mưu tác chiến kiệt xuất, một bộ thống soái tối cao đứng đầu là đồng chí Lê Duẩn đã chèo lái đất nước trong giai đoạn quyết liệt nhất, giai đoạn quyết định của cuộc chiến tranh.”
“Cuối cùng, tôi muốn nói rằng tôi và tất cả anh chị em hoạt động trên mặt trận đối ngoại đều nhận thức một cách rõ ràng là “chiến trường quyết định kết quả của bàn đàm phán”. Chính cuộc chiến đấu đầy hy sinh và từng bước thắng lợi của quân dân cả nước trong mấy chục năm ròng rã đã chinh phục “trái tim và khối óc” của nhân dân tiến bộ trên thế giới và làm cho kẻ thù bị khuất phục. Và vô cùng quan trọng nữa là chiến trường miền Nam có hậu phương vững chắc miền Bắc xã hội chủ nghĩa, nơi mỗi con người suốt bao năm đã thật sự sống và làm việc từng ngày với tinh thần “Tất cả vì miền Nam ruột thịt”.
Cuộc chiến vì độc lập, tự do đầy hy sinh gian khổ trong hơn 20 năm và tinh thần chiến đấu bất khuất vô cùng anh dũng của cả dân tộc Việt Nam là một biểu tượng vô cùng cao đẹp được cả thế giới ca ngợi. Nhưng cũng phải nói tới tinh thần đoàn kết quốc tế mạnh mẽ chưa từng có của hàng triệu triệu con người trên thế giới cũng vô cùng đẹp đẽ, đáng khâm phục…
Tôi cảm thấy hết sức tự hào về đất nước, về nhân dân ta và về bạn bè của chúng ta.“
Chương “Thống nhất đất nước”
“Tháng 10/1975, tôi lại đi thăm một số nước Arập với nhiệm vụ “vay dầu”. Đoàn chỉ có ba người, tôi, đồng chí Trúc ở Văn phòng Chính phủ và đồng chí phiên dịch. Chúng tôi đi Angiêri, Libi, Irắc. Kết quả là vay được một số dầu để sử dụng trước mắt với lãi suất ưu đãi. Tuy các bạn đều rất nhiệt tình với Việt Nam, nhưng đi vào kinh tế thì chuyện không phải dễ.
Chuyến đi Irắc để lại cho tôi một kỷ niệm sâu sắc. Lúc đó, ông Saddam Hussein mới là Phó tổng thống, nhưng được dư luận coi là “anh hùng” ở Irắc. Khi nghe chúng tôi trình bày yêu cầu bức thiết của Việt Nam, ông trả lời ngay: “Chúng tôi đã quyết định tặng Việt Nam 400 ngàn tấn dầu và cho vay 1,5 triệu tấn với lãi suất ưu đãi”. Tôi nghe mà không tin ở tai mình, hỏi lại đồng chí phiên dịch mới chắc đó là sự thật. Chúng tôi rất xúc động trước tấm lòng của các bạn Irắc. Sau này khi Irắc bị cấm vận, phải đổi dầu để lấy lương thực, các bạn vẫn dành cho Việt Nam những hợp đồng trao đổi thương mại rất thuận lợi trong lúc chúng ta còn nhiều khó khăn về kinh tế.
Năm 2002, tôi đến Irắc lần cuối để giải quyết món nợ kéo dài hơn 20 năm ta còn chưa trả xong. Theo ý kiến của các đồng chí ở Chính phủ, chúng ta đề nghị chuyển số tiền nợ thành số vốn đầu tư vào một dự án kinh tế ở Việt Nam. Khi tôi gặp ông Saddam Hussein trình bày ý kiến này thì ông cười, nói ngay: “Các bạn Việt Nam không nên bận tâm. Tôi biết các bạn còn khó khăn, ta xem như số nợ này đã trả”. Thật xúc động khi biết rằng trong thời điểm đó Irắc bị Mỹ cấm vận, khó khăn chồng chất về mọi mặt.
Tình hình Irắc đến nay diễn biến ra sao, chúng ta đều biết. Tổng thống Hoa Kỳ G.Bush phát động chiến tranh đánh Irắc với lý do Saddam Hussein có quan hệ với lực lượng khủng bố Al-Queda và tàng trữ vũ khí hủy diệt. Thực tế đã chứng minh đó là những lời nói dối, những cái cớ giả mạo được dựng lên để Mỹ thực hiện ý đồ riêng. Saddam Hussein có sai lầm trong đối nội, đối ngoại hay không, có tội lỗi với nhân dân nước ông hay không, lịch sử Irắc sẽ phán xét. Nhưng đối với Việt Nam, tôi nghĩ chúng ta biết ơn sự giúp đỡ quý báu của nhân dân Irắc và cá nhân ông trong những năm Việt Nam vừa ra khỏi chiến tranh.“
Chương “Mặt trận đoàn kết chống Mỹ và chính quyền Sài Gòn”
“Về vai trò của ông Dương Văn Minh, một văn bản của Ban Bí thư Trung ương Đảng đã đánh giá: Mặc dù ông Dương Văn Minh chưa đáp ứng được yêu cầu của ta, nhưng tuyên bố của ông và nhật lệnh của ông Nguyễn Hữu Hạnh cũng đã có tác dụng nhất định, làm giảm ý chí đề kháng của đại bộ phận quân đội Sài Gòn vào giờ chót của chiến tranh, tạo điều kiện cho quân ta tiến nhanh giải phóng Sài Gòn…
Tôi nghĩ rằng đánh giá như thế là thỏa đáng, nhưng nếu nghiên cứu thêm lý lịch của ông Dương Văn Minh và nghe thêm một số câu chuyện về ông qua lời kể của những người tiến bộ xung quanh ông thì hành động của ông Dương Văn Minh là thức thời và thể hiện ông là người có lòng yêu nước.
Sáng 30/4/1975, tướng Pháp Vanuxem xin gặp Tổng thống Dương Văn Minh. Vanuxem cố thuyết phục: “Tình hình không hết hy vọng đâu. Tôi đã thu xếp xong ở Paris. Ông nên lên tiếng kêu gọi sự can thiệp của một cường quốc, cường quốc này sẽ can thiệp ngay! Tôi có thể thu xếp liên lạc. Và liên lạc tại đây”.
Dương Văn Minh nói: “Tôi không có thời giờ nữa. Một ngày tôi cũng không có”.
Sau khi Vanuxem đi rồi, những người cùng dự với Dương Văn Minh vẫn ngồi lại. Ông Minh thốt lên: “Chúng ta đã bán nước cho Pháp, cho Mỹ rồi. Bây giờ họ lại bắt ta bán nước cho một nước thứ ba…”
“Theo lời kể của Huỳnh Tấn Mẫm, nguyên Chủ tịch Tổng hội sinh viên Sài Gòn, ông từng được Dương Văn Minh giúp đỡ, cho ở trong nhà một thời gian để tránh việc lùng đuổi của bọn mật thám. Trước đó từ năm 1972, tướng Dương Văn Minh đã tỏ ra ủng hộ phong trào thanh niên, sinh viên đấu tranh chống chính quyền Thiệu. Có lần ông nói với anh em: “Qua” biết các em hoạt động theo đường hướng nào. “Qua” rất ủng hộ các em. Thật sự thì “Qua” rất ủng hộ việc thành lập lực lượng thứ ba nhưng “Qua” muốn đứng ngoài, muốn thay thế chính quyền hiện hữu để nói chuyện hòa giải, hòa hợp dân tộc với phía Mặt trận Dân tộc giải phóng.
Thực tế xảy ra ở Sài Gòn vào cuối tháng 4/1975 chứng tỏ ông Dương Văn Minh đã làm đúng như dự định.”
“Nhà nước Việt Nam đã có nhiều chủ trương, chính sách … nhưng chắc còn phải làm nhiều hơn nữa để hàn gắn vết thương trên đất nước và trong lòng người.
Chúng ta phải thực hiện tốt chính sách hoà giải, hòa hợp dân tộc, không những vì chúng ta cùng một cội nguồn, một quê hương, mà còn vì một ý nghĩa to lớn hơn – chúng ta chung một vận mệnh, một tương lai. Mọi người Việt Nam đều mong muốn có một đất nước Việt Nam phát triển, vững mạnh, không thua kém ai – một Việt Nam xứng đáng với truyền thống oai hùng của mấy nghìn năm lịch sử. Để thực hiện khát vọng lớn lao đó, tất cả người Việt Nam ở bất cứ đâu đều phải được huy động.”
Chương “Vào ngành giáo dục”
“Những năm công tác ở ngành giáo dục, đối với tôi, ấn tượng sâu sắc về sự hy sinh, tận tụy của nghề giáo chính là hình ảnh của các cô giáo, thầy giáo từ thành phố, miền đồng bằng lên công tác ở các tỉnh miền núi như Cao Bằng, Lai Châu, Lạng Sơn… Điều kiện làm việc của anh chị em rất khó khăn vì người dân ở đây sống xa đường sá, rải rác khắp nơi, thầy giáo phải đi vận động từng gia đình mới có người đi học. Mỗi lớp chỉ vài em, đủ các trình độ. Đời sống giáo viên miền núi hết sức thiếu thốn, dường như họ sống biệt lập với tình hình chung trong nước và điều khổ nhất là nhiều người phải công tác hàng chục năm ở miền núi, chưa có điều kiện để luân chuyển về đồng bằng. Có nữ giáo viên tâm sự với tôi: “Chắc là em không thể có chồng được nữa”. Tôi nghĩ là chúng ta còn chưa biết được hết những hy sinh âm thầm của các anh chị em đó.“
“Tôi cũng biết nhiều vấn đề trong ngành giáo dục còn dở dang, chưa có phương hướng giải quyết một cách cơ bản, trong lúc yêu cầu phát triển của đất nước đòi hỏi ngành giáo dục rất nhiều, rất cao. Điều thu hoạch lớn nhất của tôi giai đoạn này là hiểu rõ hơn, sâu sắc hơn ý nghĩa vô cùng quan trọng của giáo dục đối với đất nước và đối với cuộc đời của từng con người. Quyền bình đẳng quan trọng đối với mỗi người dân trước hết phải là quyền được học hành, để mỗi người đều có cơ hội phát triển, xây dựng tương lai của mình. Cũng từ đó tôi càng hiểu ý nghĩa sâu xa của điều có thể gọi là một chủ thuyết của cụ Phan Châu Trinh: “Khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh“. Chủ thuyết đó ngày nay còn nguyên giá trị, nếu không nói là càng sáng rõ và cấp thiết hơn: nếu không có dân trí được khai hóa mạnh mẽ, không có trí thức đi kịp với thời đại thì không thể phát triển đất nước, dân tộc không thể tiến lên sánh vai được cùng thiên hạ năm châu.”
“Đồng chí Nguyễn Văn Linh, người được coi là nhà lãnh đạo quyết tâm đổi mới, được bầu làm Tổng Bí thư. Vì sao đồng chí Nguyễn Văn Linh có thể sớm nhìn ra vấn đề? Theo tôi, ngoài bản lĩnh chính trị được trui rèn qua nhiều năm đấu tranh cách mạng, hẳn một phần quan trọng nhờ hoạt đồng nhiều năm ở Sài Gòn – Chợ Lớn, một thành phố hết sức năng động, lại đã ít nhiều từng trải trong kinh tế thị trường, trực tiếp gắn bó với nhiều tầng lớp nhân dân, đồng chí đã hiểu được tâm tư, nguyện vọng cũng như thực lực của họ. Tôi nghĩ bài học của Đại hội VI còn luôn mang tính thời sự.
Đường lối đổi mới của Đảng đã có tiếng vang xa trong dư luận quốc tế, nhiều bạn bè các nước đã đưa danh từ “Đổi mới” vào ngôn ngữ thế giới; cũng như trước đây, sau chiến thắng Điện Biên Phủ, trên thế giới đã từng có danh từ “dienbien-fouet” có nghĩa là “đánh một trận nhừ tử”. “
Chương “Trở lại đối ngoại nhân dân”
“Tôi về Liên hiệp các tổ chức hòa bình, đoàn kết, hữu nghị được hai năm, đến năm 1989 thì có tang lớn: anh Khang, chồng tôi bị bệnh qua đời. Lúc đó cháu Thắng, con trai lớn của tôi đang tu nghiệp ở Tiệp Khắc. Việc xảy ra quá đột ngột. Ngày 24/12, một ngày Chủ nhật, chúng tôi còn nói chuyện với nhau về hai cháu nội ngoại của mình … Tối hôm đó, anh Khang phải đi cấp cứu ở Bệnh viện 108, nơi anh vẫn khám chữa bệnh trước đây. Tôi định ở lại bệnh viện để trông nom anh nhưng anh nhất định bắt tôi về nghỉ. Tính anh là vậy, không bao giờ muốn phiền ai, ngay cả đối với vợ con. Sáng hôm sau, tôi đến thăm anh thật sớm trước khi đi họp Quốc hội, không ngờ anh đã rất yếu, chỉ có thể nói “Anh mệt lắm!”. Bác sĩ tiêm cho anh một mũi thuốc trợ tim và rồi anh ngừng thở! Vậy là kế hoạch của chúng tôi, nguyện vọng đơn giản mà tha thiết của hai vợ chồng là sau khi tôi nghỉ chúng tôi có thể chăm sóc cho nhau tốt hơn, cùng nhau đi du lịch một số nơi … đã tan biến! Bạn bè, anh em, đồng chí bên tôi còn rất nhiều và hết sức chia sẻ, nhưng tôi vẫn cảm thấy thật cô đơn, lẻ loi. Nỗi đau này đối với tôi là vô tận. Từ nay, tôi không còn có người để có thể thổ lộ mọi suy nghĩ, tâm tư, thắc mắc, để nhận được những lời khuyên, những lời an ủi mà tôi cần. Cuộc đời là vậy, biết làm sao!“
Chương “Phó Chủ tịch nước”
“Từ khi anh Khang mất, các bạn tôi ở Thành phố Hồ Chí Minh muốn tôi trở về “nơi tôi đã ra đi”. Ở thành phố, tôi có nhiều bạn thân từ thời hoạt động chống Pháp và cả một số bạn miền Nam tập kết ra Bắc, sau giải phóng cũng kéo về thành phố.
Ở đây tôi có hai người em ruột, Nguyễn Đông Hà và Nguyễn Đông Hồ. Hà là em kế tôi, đã ở lại miền Nam hoạt động suốt thời kỳ chống Mỹ, bị đày ra Côn Đảo, bị nhốt chuồng cọp 7 năm. Hà xa gia đình suốt 21 năm Nam – Bắc chia cắt, nên tha thiết được sum họp cả gia đình, đặc biệt em muốn được ở gần “chị Hai”. Hai chị em chúng tôi đầy ắp bao kỷ niệm thời thơ ấu. Hà kém tôi 3 tuổi, 16 tuổi đã tham gia phong trào Thành đoàn Sài Gòn và hoạt động trong tổ chức này đến khi bị bắt, cuối năm 1968.
Hồ là Phó tiến sĩ cơ khí, học ở Nga về, sau giải phóng cũng đã về công tác ở Thành phố Hồ Chí Minh.
Từ năm 1990, tôi đã cho con trai là cháu Thắng về thành phố công tác để chuẩn bị điều kiện cho tôi sẽ về sau. Như vậy, kể từ khi tập kết ra miền Bắc, tôi đã ở Hà Nội 36 năm, dài hơn cả quãng thời gian tôi lớn lên và hoạt động ở miền Nam. Qua công tác ở Hội Liên hiệp Phụ nữ Trung ương, Ban Thống nhất và sau này ở Bộ Giáo dục, Ban Đối ngoại Trung ương, Quốc hội, tôi cũng hiểu nhiều về miền Bắc và có nhiều bạn bè thân thiết … Nhưng thú thật những kỷ niệm của thời niên thiếu, những năm tháng có cha mẹ, anh em đầy đủ ở miền Nam để lại cho tôi những ký ức sâu đậm, khó quên.
Tôi đang ở trong tâm trạng như vậy thì đầu năm 1992, đồng chí Đỗ Mười, Tổng Bí thư đến thăm tôi.
Đồng chí cho biết các đồng chí trong Bộ Chính trị dự định cử tôi là Phó Chủ tịch nước trong kỳ Quốc hội khóa tới. Thật bất ngờ đối với tôi. Phản ứng đầu tiên của tôi là từ chối vì lúc đó tôi cũng đã 65 tuổi, quá tuổi nghỉ hưu theo quy định chung, hơn nữa tôi đã có kế hoạch về sống ở Thành phố Hồ Chí Minh. Tôi cảm ơn đồng chí Đỗ Mười và trả lời: “Rất tiếc là khi tôi còn trẻ, có thể cống hiến nhiều, các đồng chí đã đánh giá chưa đúng về tôi… Nay đã đến lúc tôi phải nghỉ!“. Thực sự tôi không cố tình nhưng tự nhiên đã bộc lộ một tâm tư bấy lâu nay của mình. Nhưng rồi tôi tự nghĩ: mình có làm gì cũng là vì đất nước, không phải vì mục đích nào khác. Cuối cùng, tôi đồng ý nhận nhiệm vụ mới, tiếp tục công tác. Các con tôi thì không có ý kiến, chỉ “tùy mẹ”. Từ trước, hai con tôi đã không hề dựa “thế” của bố mẹ nên nay tôi có làm Bộ trưởng hay Phó Chủ tịch nước cũng vậy thôi. Riêng Hà không vui, em nói nửa đùa nửa thật: “Em mong chị không trúng cử đại biểu Quốc hội kỳ này để khỏi làm Phó Chủ tịch nước mà về thành phố với chúng em”. Ao ước của em tôi đã không thành; mấy năm sau, Hà mất trong khi tôi vẫn còn phải ở Hà Nội.”
“Khi bắt đầu nhận nhiệm vụ Phó Chủ tịch nước, tôi đã 65 tuổi. Trong hai nhiệm kỳ, tôi nghĩ mình đã làm tốt trọng trách được giao. Từ đó tôi suy nghĩ về chính sach cán bộ nữ ở nước ta. Nhận xét đầu tiên là không nhất thiết phụ nữ trên 55, 60 tuổi không làm được việc tốt.
Tôi may mắn được giao cho nhiều công việc quan trọng và có vị trí xã hội cao. Nhưng còn bao nhiêu chị em khác trước và sau tôi, có trình độ, không kém năng lực hơn nam giới nhưng không may mắn nên không phát huy được tài năng, có vị trí xã hội xứng đáng. Tôi cho rằng vì lợi ích của sự phát triển đất nước, nhất là một đất nước như Việt Nam còn phải phấn đấu rất nhiều để có cuộc sống thực sự văn minh và hạnh phúc, cần tạo điều kiện cho phụ nữ vừa làm tốt việc gia đình, vừa có thể đóng góp xứng đáng cho xã hội, cho việc quản lý đất nước. Xây dựng gia đình tốt, nuôi dạy con nên là một nhiệm vụ cực kỳ quan trọng. Người phụ nữ không thể xao nhãng được, nhưng đó cũng là trách nhiệm của xã hội. Vì vậy cần có chính sách xã hội hỗ trợ thiết thực cho chị em trong nhiệm vụ này. Đồng thời, Nhà nước cũng cần thấy sự tham gia nhiều hơn của phụ nữ trong việc quản lý nhà nước là hết sức cần thiết, để từ đó có các chủ trương, chính sách có cái nhìn sâu hơn, toàn diện hơn trong các mặt hoạt động xã hội. Đến nay, dường như trong chính sách cán bộ chưa nhìn nhận đúng khả năng của người phụ nữ nên chưa tạo điều kiện cần thiết cho chị em vươn lên.”
“Năm 1994, Đảng và Nhà nước chủ trương tôn vinh Bà mẹ Việt Nam anh hùng. Đây là ý kiến đề xuất của Chủ tịch nước Lê Đức Anh, được dư luận rất hoan nghênh, tuy có người cho là hơi chậm. Sau gần 20 năm có bao nhiêu bà mẹ xứng đáng với danh hiệu cao quý đã không còn nữa.
Nhưng dù sao chủ trương đầy ý nghĩa đạo lý này đã đem đến cho hàng nghìn gia đình niềm tự hào và an ủi. Hai địa phương có nhiều bà mẹ anh hùng là Quảng Nam quê tôi và đất thép Củ Chi (Thành phố Hồ Chí Minh). Công việc quan trọng này do Bộ Quốc phòng phối hợp với Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội và Hội đồng Thi đua – Khen thưởng Trung ương thực hiện. Với trách nhiệm thay mặt Chủ tịch nước, tôi đã tiếp nhiều bà mẹ anh hùng. Phần đông các mẹ rất nghèo và cô đơn. Mẹ Nguyễn Thị Thứ ở huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam có 11 người thân là chồng, con và cháu đã hy sinh. Đây cũng chính là quê hương anh Nguyễn Văn Trỗi và chị Trần Thị Lý. Có lẽ trên thế giới, qua bao nhiêu cuộc chiến tranh, ít có gia đình nào đã phải chịu mất mát to lớn như vậy. Nghe cuộc đời của các mẹ, tôi càng thấm thía “Trong chiến tranh, người phụ nữ là người chịu nhiều hy sinh nhất!“. “
“Đau buồn và đáng thương nhất là các cháu chịu ảnh hưởng của chất độc da cam. Có đến một nửa các cháu ấy phải chịu dị tật rất nặng, gần như vô phương cứu chữa như bại não, liệt tay chân… Thật thương tâm khi thấy những người mẹ phải bế trên tay mình đứa con tàn tật như vậy suốt hơn 30 năm. Và những người cha, người mẹ ấy lại thường là những gia đình nghèo khổ nhất. Chắc trên khắp thế giới không có nơi nào con người phải chịu nhiều đau khổ cho bằng!“
Chương “Về hưu nhưng bận rộn”
“Tôi bắt đầu viết những dòng hồi ký này từ năm 2007, khi tôi vừa đúng 80 tuổi, viết xong vào cuối năm 2009.
Đặt bút xuống mà trong đầu còn bao nhiêu suy nghĩ, băn khoăn chen lẫn lo lắng và hy vọng.
Thế hệ của tôi, có thể nói là lớp cuối cùng của thế hệ những người tham gia hai cuộc kháng chiến, và sau đó trong 30 năm liên tục được sống và đóng góp cho công cuộc hàn gắn vết thương chiến tranh, bắt đầu xây dựng lại đất nước, may mắn hơn bao nhiêu anh chị em, đồng chí đã ngã xuống giữa đường… Tôi đã hiểu thế nào là đau thương trong chiến tranh, và gian khổ trong xây dựng hòa bình. Cuộc sống của tôi, gắn với cuộc sống của dân tộc, đã giúp tôi hiểu giành chính quyền, đòi độc lập dân tộc là cực kỳ khó, nhất là khi ta phải đối đầu với đế quốc, thực dân đầu sỏ; nhưng giữ chính quyền, xây dựng đất nước, nhất là xây dựng đất nước theo nguyện vọng của nhân dân, xây dựng con người, để đem lại cuộc sống tự do, hạnh phúc cho nhân dân, một cuộc sống thật sự trong lành, còn khó hơn biết bao lần.
Tổng tống Nelson Mandela, nhà chính trị lỗi lạc của Nam Phi từng nói một cách rất xác đáng: “Khi ta giải phóng được đất nước, ta mới giành được quyền để có tự do chứ ta chưa thực sự có được tự do”. Vì vậy, phải xây dựng nên con người tự do, tự chủ, đủ năng lực và phẩm chất để bảo vệ và xây dựng đất nước độc lập và tự do. Tôi mong ước một ngày không xa, chúng ta sẽ có được những thế hệ người Việt Nam đầy tự tin, nhân ái, và có trí tuệ dồi dào… sống trong một xã hội dân chủ và văn minh, một đất nước vững mạnh, tự chủ mà tự tay mình xây dựng nên. Chính vì lý do đó, cho đến nay, tôi vẫn kiên trì đề nghị Đảng và Nhà nước phải sớm tiến hành một cuộc cải cách căn bản và toàn diện để chấn hưng nền giáo dục nước nhà góp phần nâng cao nền văn hóa dân tộc. Đó là yếu tố quyết định nhất lúc này.”
“Tôi thích ví đất nước ta như con thuyền. Qua bao thác ghềnh, con thuyền Tổ quốc đã ra biển cả, phía trước là chân trời mới …!“